Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

Sự khác nhau giữa thùng carton in thủ công và in máy

Để sản xuất ra thùng carton nó phải trải qua nhiều công đoạn như chạy giấy sóng, giấy tấm, cán lằn, bổ chạp khe thùng, in ấn, dán thùng…Và một trong những công đoạn trên rất quan trọng là in ấn thùng.
khi nhìn vào tổng thể một cái thùng carton, ấn tượng đầu tiên phần in ấn. Người ta thường chú ý ở màu sắc đẹp, chữ in rõ ràng bắt mắt. Vậy để có những mẫu thùng in ấn đẹp chuẩn nó phụ thuộcvào kỹ thuật in và công nghệ in.


Dưới đây là sự so sánh giữa in lụa thủ công và in bằng máy móc công nghệ.
                   In bằng máy
Chuẩn bị bản in bằng cao su được khắc theo thiết kế.
In được tốc độ nhanh, ít bị lỗi, chất lượng tốt, sắc nét.
Pha màu tự động và cho ra hình in nhiều màu 1 lúc, có độ sắc nét cao
In hoàn toàn tự động, nhanh và ít nhân lực
Phù hợp với đơn hàng thùng lô, số lượng nhiều.
Chi phí làm bản in cao
                       In lụa thủ công
Chuẩn bị giấy film, xử lý ép nóng bằng nhiệt đèn để thuốc mực in nhả lên bản lụa.
In bằng tay nên rất chậm, hay bị lỗi và lem mực.
Pha màu bắng tay, mỗi lần in chỉ một màu, số màu hạn chế.
In hoàn toàn bằng thủ công, tốn thời gian và nhân lực
Chủ yếu là làm hàng nhỏ lẻ số lượng mỗi mã thùng ít.
Chi phí làm bản in thấp


Từ những so sánh ở trên ta thấy điểm mạnh vượt trội của việc in ấn thùng carton bằng máy in Flexo. Nó đáp ứng được việc in ấn những chi tiết nhỏ mà vẫn sắc nét, năng suất cao của các loại mẫu mã thương hiệu của đối tác khi đặt thùng carton.
Còn in lụa chỉ dùng trong trường hợp số lượng quá nhỏ không đủ sản lượng để chạy máy.
Nếu các bạn cần tìm hiểu thêm về phương pháp đóng gói hay in ấn thùng carton, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để nhận được tư vấn chi tiết hơn.

NGUYEN NGOC LABEL nhà cung cấp nhãn in chất lượng, uy tín, giá cạnh tranh
CÔNG TY TNHH NGUYỄN NGỌC LABEL
NGUYEN NGOC LABEL CO., LTD
Số 6, đường 16A, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, TP. HCM
Website: http://in-flexo.com
Hotline: 0949 286 384
Tel: 08.542.73548
Fax: 08.542.72300

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Công nghệ in ấn

Công nghệ chế tạo bản in flexo ngày nay
Quy trình làm bản Flexo, về cơ bản thật là đơn giản. Bạn có thể bắt đầu với một tấm vật liệu polymer rắn (hoặc lỏng) tác động chọn lọc bằng tia UV rồi bóc tách những phần tử không in ra khỏi bản. Hơn 30 năm trước bản Flexo được làm bằng tay và được khắc bằng những người thợ chế bản khéo léo
Nhưng ngày nay, công việc chế bản đã thay đổi rất nhiều, ngày càng khoa học, với chất lượng được nâng cao vượt bậc và mọi người thấy nó khá phức tạp. Bài viết này hy vọng sẽ giải thích những điểm chính về công nghệ Flexo và làm sáng tỏ một số điểm thường gây thắc mắc.

Thuật ngữ về bản Flexo
Để hiểu rõ quá trình làm bản, trước tiên ta cần hiểu cấu trúc của bản Flexo và một số thuật ngữ. Sau khi chế bản, khu vực nền trên đó phần tử in tạo chân được gọi là đế bản (floor) hay cũng chính là phần tử không in. Chiều cao từ đế bản cho tới bề mặt hình ảnh gọi là phần tử in nổi (relief). Mặt lưng của bản được tăng cường bằng một lớp phim nhằm tạo sự ổn định về kích thước bản khi in.
Chiều dày bản phụ thuộc vào loại máy in và công dụng in của nó. Chiều dày bản thay đổi từ 0.045” (1.14 mm) tới 0.25” (6.35 mm). Độ dày trung bình của loại bản mỏng ở Bắc Mỹ là 0.067” (1.70 mm) được dùng cho nhãn mác, hộp giấy, bao bì mềm… Bản dày từ 0.125” (3.175 mm) tới 0.25” (6.35 mm) thường được dùng nhiều trong in bao bì carton dợn sóng và trên các loại bao dệt PP…

Quy trình chế tạo bản
Có hai loại bản photopolymer cơ bản là: bản lỏng hoặc bản rắn, dùng để gia công hầu hết các bản Flexo. Bản photopolymer được cấu tạo gồm những phân tử monomer và phần tử kích hoạt bằng tia UV (photoinitiator). Do đó, sau khi được chiếu sáng bằng tia UV, các phần
tử photoinitiator sẽ phản ứng hóa học và kết nối với các monomer sẽ tạo thành một khối hợp chất polymer. Với bất cứ loại bản nào: lỏng hay rắn, bản analog hay digital, đều theo cùng một quy trình phản ứng hóa học này trong quá trình gia công, tạo bản. Thông thường, bước đầu tiên là phơi phần đế của bản với tia UV, làm cứng chúng đồng đều để tạo phần nền (floor) đạt độ cao cần thiết. Phần mặt trước của bản sau đó được phơi tia UV một cách chọn lọc nhờ vào các loại bản che (phim âm bản trong công nghệ Analog hoặc lớp mask trong công nghệ Digital). Phần bị chiếu sáng sẽ bị polymer hóa tạo thành hình ảnh in nổi. Còn các phần tử bị che sẽ không bị polymer hóa và sẽ được tách ra trong quá trình hiện bản. Hình ảnh càng chi tiết thì qui trình phơi càng lâu.
Phần tử không polymer hóa sẽ được bóc tách bằng nhiều phương pháp khác nhau cho tới mặt đế bản chỉ còn lại phần tử in nổi. Phương pháp phổ biến nhất là tách phần tử không in của bản rắn bằng các loại hóa chất rửa bản (dung môi truyền thống hoặc dung môi loại mới mùi nhẹ, hoặc là nước pha với các chất tẩy rửa). Một phương pháp khác là gia nhiệt: bao gồm việc làm nóng chảy các phần tử polymer rồi tách chúng ra bằng áp lực. Đối với bản polymer lỏng, các phần tử polymer lỏng không sử dụng được gom lại để tái chế, phần còn lại của bản được xử lý để hoàn thiện trước khi in. Trong trường hợp hiện rửa bằng dung môi: sau khi phần tử không in được bóc tách, dung môi này thường bị hấp thụ vào tấm bản làm bản phồng lên. Do đó, bản polymer phải qua công đọan sấy bản để dung môi được bốc hơi hết để bản phục hồi lại kích thước ban đầu trước khi qua giai đoạn kế tiếp. Việc này thực hiện bởi những bộ gia nhiệt và quạt thổi khí nóng vào bản.
Tiếp đến là công đoạn chiếu sáng hoàn tất bản: Do phần giữa tấm polymer vẫn còn sót lại những phần tử chưa polymer hóa, còn dính nên độ bền bản không cao, chất lượng chưa tốt. Để khắc phục vấn đề này, bản được chiếu sáng lần nữa bằng đèn UVA và UVC để hoàn thành quá trình polymer hóa cũng như làm khô hoàn toàn mặt bản.
Bản polymer sau đó được kiểm tra, đo đạc và hoàn thiện. Bản sau khi gia công phải được lưu giữ một thời gian trước khi sử dụng vì phản ứng polymer hóa không ngừng ngay lập tức mà thường tiếp tục diễn ra nhiều giờ cho đến khi hoàn toàn ổn định. Đem sử dụng bản quá sớm có thể giảm tuổi thọ bản và ảnh hưởng đến sự ổn định, đặc biệt đối với những chi tiết hình ảnh nét nhỏ. Trên đây là qui trình gia công bản Flexo và nó tương đối đơn giản. Điều làm cho việc chế bản Flexo phức tạp là chất lượng bản thay đổi đáng kể do những kết hợp giữa các yếu tố có thể xảy ra như:
• Vật liệu bản polymer, độ dày bản, độ cứng bản, mặt nạ mask, công nghệ ghi bản.
• Hệ thống xử lý bản, dung dịch xử lý bản và những công đoạn khác nhau của việc hoàn thiện bản.
Nó cũng tùy thuộc vào sản phẩm in Flexo như là: nhãn in cuộn khổ hẹp (narrow web), bìa carton, bao thư, bao bì mềm, bao nylon nhiều lớp hay bao bì carton dơn sóng v.v…
Phương pháp tạo bản
Phương pháp tạo bản thông dụng nhất hiện nay trong in Flexo là analog và digital Laser Ablative Mask System (LAMS). Đối với hệ thống analog, phim matt (phim có mặt nhám chuyên dùng cho bản flexo) được ghi riêng trước khi đặt lên trên tấm bản analog, sau đó tất cả được phủ lên một tấm phim để hút chân không. Sau khi hút chân không, bản Flexo được phơi bằng tia UV. Hạt tram và đường nét trên bản thường to hơn so với tram và đường nét trên phim vì sự tán xạ và phản xạ của ánh sáng sau khi xuyên qua nhiều lớp như: lớp phủ, tấm phim đã ghi và tấm che ngăn không cho phim dính vào bản. Bản analog cũng có cấu trúc hạt tram bằng đầu (flat top) với độ bền hạt tương đối tốt.
Công nghệ digital LAMS không dùng phim, thay vào đó một lớp mặt nạ màu đen được áp chặt lên mặt bản. Lớp mặt nạ đen được đốt bằng tia laser công suất cao, sau đó phần tử bị đốt được hút sạch để lộ ra phần tử in, phần mặt nạ còn lại sẽ che phủ phần tử không in. Bản sau đó được phơi với quy trình phơi thông thường, nhưng không có hút chân không, tức là nó được phơi với sự hiện diện của không khí. Phần tử oxy trong không khí tác động lên các phân tử kích hoạt polymer, làm chậm quá trình polymer hóa, điều này khiến hạt tram bị co lại và thay vì bằng đầu, hạt tram có hình đầu tròn như viên đạn

Công nghệ thế hệ thứ 3 được phát minh từ năm 2008là công nghệ làm bản Laminate. Với công nghệ này, một lớp phim nhạy nhiệt chất lượng cao Thermal Imaging Layer (TIL), được ghi bằng máy ghi bản công suất thấp, tương tự loại dùng trong chế bản Offset. Lớp TIL này sau đó được ép chân không lên mặt bản digital Flexo chuyên dùng. Nhờ vậy mặt thuốc của TIL hoàn toàn tiếp xúc với bản polymer, còn đế phim sử dụng như một rào chắn ngăn oxy tác động. Cả bản và lớp TIL được phơi trong không khí, nhưng không có tác dụng của oxy. Tiếp xúc hoàn hảo giữa bản với mặt thuốc tạo kết quả chuyển tiếp hình ảnh 1: 1 từ file sang bản. Lớp TIL sau đó được bóc khỏi trước khi hiện bản và xử lý như qui trình bình thường. Cấu trúc của hạt tram có chóp bằng đầu tạo sự bền bản khi in như bản analog nhưng độ phân giải cao hơn rất nhiều, tới 300 lpi và tầng thứ đầy đủ từ 0 – 100%.
Phương pháp làm bản thứ 4 là khắc trực tiếp Direct Laser Engraving (DLE): ở phần tử không in được đốt bởi đầu laser có công suất cực cao, nhằm tạo phần hình ảnh nổi. Đây là quá trình làm bản thuần túy digital, không dựa vào phản ứng hóa học nhờ tia UV. Nó được sử dụng phổ biến cho việc in hình ảnh liên tục và chế bản hình ống (sleeve). Tốc độ ghi và giá thành của hệ thống laser khá đắt là hạn chế của công nghệ đang phát triển này.
Công nghệ ghi bản Laser:
Có nhiều công nghệ ghi laser được áp dụng cho bản digital Flexo.
Công nghệ dùng bản digital LAMS:
Hai loại phổ biến hiện nay áp dụng cho bản đều dùng đầu laser năng lượng cao để đốt lớp mặt nạ đen.
• Phương pháp phổ biến nhất là chùm tia laser đơn Gaussian. Chùm tia này đốt bản với năng lượng cao nhưng có profile dạng hạt mềm (soft dot). Nguyên do là cấu trúc của laser này có năng lượng cao ở trung tâm chùm tia, suy giảm mạnh ở vùng rìa tạo ra dạng năng lượng hình chuông.
• Phương pháp thứ hai là chùm laser nhiều tia gồm những tia năng lượng thấp kết hợp lại tạo ra mức năng lượng cần thiết. Nhưng phương pháp này cũng tạo ra nguồn năng lượng cao ở trung tâm, bị giảm mạnh ở vùng gần bìa chùm tia, kết quả là hạt tram không sắc nét.
Công nghệ digital LAMS kết hợp với việc tác động của oxy hóa làm hạt tram co lại trong quá trình phơi UV. Điều này thực tế làm cho kết quả cuối cùng của tấm bản kém ổn định và khó kiểm soát.
Công nghệ sử dụng ép bản chân không Laminate:
Với công nghệ tram vuông SquareSpot năng lượng thấp được sử dụng để ghi phim nhiệt TIL trước khi ép chân không lên bản Flexo digital. Mỗi hạt 10,6 micron là một ma trận của 4x4 laser tạo cấu trúc tram hard dot với rìa cạnh sắc nét cũng như chuyển hình ảnh 1:
1 từ digital tới bề mặt bản. Đây chính là phần ưu việt của công nghệ này. Vì so với file digital tạo bởi những ảnh điểm vuông, việc dùng laser dạng tròn luôn luôn cho kết quả có sai số. Điều này xảy ra khi các ảnh điểm laser tròn chồng lên nhau làm thay đổi diện tích hạt.
Phơi bản UV

Bước quan trọng đối với mọi công nghệ chế bản Flexo là phơi bản bằng tia UV nhằm tạo phản ứng polymer hóa cho phần tử in. Đây là phần quan trọng nhất đối với chất lượng sau cùng của bản. Công đoạn này thay đổi rất ít trong suốt 20 năm qua với cải tiến nhiều hơn là những bước đột phá. Chìa khóa của quá trình này là sự ổn định và chính xác lặp lại. Sự thay đổi bên ngoài như nhiệt độ, độ ẩm có thể ảnh hưởng đến quá trình phơi và kết quả. Những bộ phận đơn giản như mặt phẳng được làm mát của bàn phơi, lượng gió giải nhiệt đầy đủ để thổi hơi nóng thoát ra từ mặt bản cũng có thể hỗ trợ lớn cho việc tăng sự ổn định cho bản. Một yếu tố ảnh hưởng nữa là việc bong
đèn tuýp UV sẽ suy giảm năng lượng phát sáng sau thời gian sử dụng. Vì vậy, bộ phận điều chỉnh ánh sáng bao gồm cảm biến đo lượng sáng phát ra để tự động điều chỉnh thời gian phơi sẽ đảm bảo năng lượng phơi luôn ổn định. Đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phơi bản Flexo.
Quá trình hiện và xử lý bản
Đối với tất cả qui trình làm bản Flexo (trừ khắc bản trực tiếp DLE: Direct Laser Engraving), quá trình hiện bản là quá trình xử lý hóa chất. Những phần tử không polymer hóa được bóc tách sau đó hòa tan (phương pháp dung môi hữu cơ) hoặc nung chảy và bóc tách (phương pháp gia nhiệt thermal). Phương pháp phổ biến nhất là dùng hóa chất rửa bản, hoặc là hỗn hợp nước và chất tẩy rửa. Trong cả hai trường hợp, hóa chất hấp thu phần tử photopolymer có thể tái sinh rồi tách ra phần polymer không cần thiết, trước khi xử lý thải. Dung dịch dùng ngày nay được coi là không có phần tử độc hại, mùi nhẹ và thân thiện với người vận hành. Nó được tái tạo bằng công nghệ chưng cất truyền thống hoặc tái sinh với một gallont (3.79 lít) của dung môi tái tạo với tỷ lệ 90%, có thể dùng để tạo nên gần 40 feet vuông (3.72 m2) của bản photopolymer loại 0.067”. Quy trình tạo bản nhiệt cũng là một phương pháp phổ biến khác, thay vì hòa tan phần bản polymer không cần thiết, phần tử này được nung nóng nhiều lần làm chảy nó, với thiết bị làm chảy polymer bằng lô hiện bản dưới áp lực. Thường là bản Flexo phải qua 8-12 vòng trong chu trình này để đạt được độ sâu cần thiết cho mặt bản. Việc làm chảy vật liệu bản không cần thiết cũng sẽ sản sinh ra khí thải phải được hút ra khỏi khu vực sản xuất. Cuộn lô hiện bản là vật liệu dùng một lần và phải lớn hơn khổ bản. Thông thường để tạo 40 feet vuông của bản (tương đương sử dụng một gallon dung môi), 440-480 feet vuông của cuộn lô hiện bản được dùng và phải trả lại cho nhà máy chế tạo để thải theo đúng qui định an toàn hoặc tái sinh lại. Việc chọn qui trình xử lý bằng dung môi hoặc qui trình xử lý bằng nhiệt được quyết định dựa trên yêu cầu kỹ thuật. Ta phải xem xét những lợi điểm và khuyết điểm của từng công nghệ. Ví dụ như tráng rửa bằng dung môi cho phép tạo bản với tiêu chuẩn cao nhất. Mặt khác chọn công nghệ gia nhiệt thuận tiện và nhanh hơn. Yếu tố cần xem xét nữa là dung môi sử dụng và quy trình tái sinh đang được các nhà sản xuất cải tiến liên tục nhằm tăng năng suất và thuận lợi hơn khi gia công bản.
Kết luận:
Nhìn chung, công nghệ làm bản Flexo khá phức tạp khi bạn không kiểm soát được chúng. Trong thực tế đây là sự kết hợp giữa vật liệu làm bản và hệ thống ghi bản để tạo nên 1 tấm bản Flexo có thể chấp nhận về mặt thương mại cho sản phẩm được in ấn. Quá trình chuyển từ file sang hình ảnh cũng như xử lý bản càng ổn định chừng nào thì quy trình in trên máy càng dễ kiểm soát, giúp cho việc rút ngắn thời gian chuẩn bị, chạy thử và tăng cường tính ổn định của sản phẩm in. Điều này sẽ mang nhiều lợi ích cho nhà in, khách hàng sử dụng sản phẩm và cuối cùng là môi trường
CÔNG TY TNHH NGUYỄN NGỌC LABEL
NGUYEN NGOC LABEL CO., LTDSố 6, đường 16A, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, TP. HCM
Website: http://in-flexo.com
Hotline: 0949 286 384
Tel: 08.542.73548
Fax: 08.542.72300Kinh doanh:NGỌC TÙNG: 0939604674
NGỌC THIÊN: 0949 286 384
MINH AN: 0938 911 150

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

In ấn giá rẻ - dịch vụ chất lượng giá cả cạnh tranh

Cùng với sự phát triển của kỹ thuật in offset, ống đồng, kỹ thuật in flexo (xem thêm: In flexo là gì?)ngày càng được cải tiến cho chất lượng in ngày càng cao và mật độ tram có thể lên đến 175 lpi tương đương với in offset. Công nghệ in Flexo đang được sử dụng rộng rãi và có nhiều tiềm năng phát triển nhờ có ưu điểm là đáp ứng được tiến độ sản xuất lớn, có thể in ấn trên các vật liệu dạng cuộn dành cho các dòng máy dán tự động. Đặc biệt công nghệ flexo có hệ thống bế tự động ngay sau quá trình in. Nếu vật liệu khi in là các loại decal thì các phần dư thừa của sản phẩm cũng được bóc rời khỏi phần đế dán, Nếu vật liệu in là các thùng cacton thì sẽ được bế thành thùng carton, chúng ta chỉ cần đóng kim để hoàn thiện sản phẩm. Phương pháp in flexo là lựa chọn thích hợp để in label, sticker, tem, nhãn hàng, bao bì, thùng carton và in được trên nhiều chất liệu khác nhau…

Ngày nay, cùng sự phát triển không ngừng về khoa học kỹ thuật, công nghệ chế bản flexo ngày càng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu in ấn ngày một nâng cao của các nhà in. Vì vậy chúng tôi đã đầu tư hệ thống ghi bản Flexo hiện đại nhất hỗ trợ trame HD, độ phân giải lên đến 4000ppi cho bản in polymer chất lượng tốt, sắc nét và ổn định trong quá trình in ấn.

Với hệ thống máy móc, trang thiết bị hiện đại, cùng đội ngũ nhân viên năng động, nhiều kinh nghiệm, có trách nhiệm cao là những người tiên phong trong lĩnh vực chế bản polymer bằng kỹ thuật số, chúng tôi tin tưởng cung cấp các loại bản polyme chất lượng tốt nhất cho in flexo như: Carton, nhãn hàng, bao bì màng, bao bì giấy,…


Dịch vụ của chúng tôi cung cấp luôn phong phú, đa dạng và in được trên nhiều chất liệu giấy, màng, decan, … với nhiều kích thước khác nhau, đáp ứng tốt yêu cầu của quý khách hàng. Chúng tôi luôn mong muốn mang đến cho Quý công ty những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất với chi phí hợp lý nhất.

NGUYEN NGOC LABEL nhà in flexo, cung cấp nhãn in chất lượng, uy tín, giá cạnh tranh

CÔNG TY TNHH NGUYỄN NGỌC LABEL
NGUYEN NGOC LABEL CO., LTDSố 6, đường 16A, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, TP. HCM
Website: http://in-flexo.com
Hotline: 0949 286 384
Tel: 08.542.73548
Fax: 08.542.72300Kinh doanh:NGỌC TÙNG: 0939604674
NGỌC THIÊN: 0949 286 384
MINH AN: 0938 911 150

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Ứng dụng mới trong ngành in

Ứng dụng công nghệ In Flexo

 Kỹ thuật in Flexo cho chất lượng in không cao như các công nghệ khác nếu in ở dạng hình ảnh. Thông thường in flexo thường dùng màu pha (màu solid) với trục anilox dẫn mực nên có ưu điểm là chất lượng sản phẩm khi in ra đồng đều và có độ màu đậm vì sử dụng Tram 150DPI. Công nghệ in Flexo đang được sử dụng rộng rãi và có nhiều tiềm năng phát triển nhờ có ưu điểm là đáp ứng được tiến độ sản xuất lớn, có thể in ấn trên các vật liệu dạng cuộn dành cho các dòng máy dán tự động.
in flexo


Đặc biệt Công nghệ flexo có hệ thống bế tự động ngay sau quá trình in.  Nếu vật liệu khi in là các loại decal thì các phần dư thừa của sản phẩm cũng được bóc rời khỏi phần đế dán. Phương pháp in flexo là lựa chọn thích hợp để in label, sticker, tem, nhãn, mác, bao bì, vỏ thùng carton và in được trên nhiều chất liệu đặc biệt như: vải, bìa hoặc in trên màng polyme...

Vậy In flexo là gì?

In Flexo là phương pháp in trực tiếp do có bản in nổi, mực in được cấp cho khuôn in nhờ trục anilox. Trục anilox là một trục kim loại, bề mặt được khắc lõm nhiều ô nhỏ (cell). Trong quá trình in, trục được nhúng một phần trong máng mực, mực sẽ lọt vào các ô trên bề mặt trục, phần mực nằm trên bề mặt sẽ được dao gạt mực gạt đi. Sau đó khuôn in sẽ tiếp xúc với trục và nhận mực từ trong các cell trên bề mặt trục in.

Khuôn in flexo: - Được làm bằng nhựa photopolymer. Khuôn in có thể được chế tạo bằng phương pháp quang hóa, CTP hoặc khắc laser, sau đó được gắn lên trục in nhờ băng keo 2 mặt hoặc từ trường. Việc lựa chọn khuôn in (độ dày, độ cứng, số lớp) phụ thuộc vào vật liệu in (giấy, carton hay màng).

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

Nhãn in giá rẻ cạnh tranh Tp.HCM

 In Flexo là phương pháp in trực tiếp do có bản in nổi, mực in được cấp cho khuôn in nhờ trục anilox. Trục anilox là một trục kim loại, bề mặt được khắc lõm nhiều ô nhỏ (cell). Trong quá trình in, trục được nhúng một phần trong máng mực, mực sẽ lọt vào các ô trên bề mặt trục, phần mực nằm trên bề mặt sẽ được dao gạt mực gạt đi. Sau đó khuôn in sẽ tiếp xúc với trục và nhận mực từ trong các cell trên bề mặt trục in.

Khuôn in flexo- Được làm bằng nhựa photopolymer. Khuôn in có thể được chế tạo bằng phương pháp quang hóa, CTP hoặc khắc laser, sau đó được gắn lên trục in nhờ băng keo 2 mặt hoặc từ trường. Việc lựa chọn khuôn in (độ dày, độ cứng, số lớp) phụ thuộc vào vật liệu in (giấy, carton hay màng). 

Ứng dụng công nghệ In Flexo

 Kỹ thuật in Flexo cho chất lượng in không cao như các công nghệ khác nếu in ở dạng hình ảnh. Thông thường in flexo thường dùng màu pha (màu solid) với trục anilox dẫn mực nên có ưu điểm là chất lượng sản phẩm khi in ra đồng đều và có độ màu đậm vì sử dụng Tram 150DPI. Công nghệ in Flexo đang được sử dụng rộng rãi và có nhiều tiềm năng phát triển nhờ có ưu điểm là đáp ứng được tiến độ sản xuất lớn, có thể in ấn trên các vật liệu dạng cuộn dành cho các dòng máy dán tự động. 
in flexo

Đặc biệt Công nghệ flexo có hệ thống bế tự động ngay sau quá trình in.  Nếu vật liệu khi in là các loại decal thì các phần dư thừa của sản phẩm cũng được bóc rời khỏi phần đế dán. Phương pháp in flexo là lựa chọn thích hợp để in label, sticker, tem, nhãn, mác, bao bì, vỏ thùng carton và in được trên nhiều chất liệu đặc biệt như: vải, bìa hoặc in trên màng polyme...